KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)
Tin tức hoạt động
Đăng ngày: 23/02/2024 - Lượt xem: 449
Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới

“Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc,… là đường lối chiến lược có ‎ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam”(1). Kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi mới, phát triển tư duy lý luận về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của vấn đề đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng cách mạng, bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gặp mặt người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số toàn quốc 2023_Nguồn: vpctn.gov.vn
Sự phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới
Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân, nhất là nhấn mạnh, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng ta khẳng định, bài học cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bao giờ cũng quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh, ở đâu nhân dân lao động có ý thức làm chủ thật sự thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng. Vì vậy, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh của toàn đảng, toàn dân và toàn quân”(2). Đại đoàn kết toàn dân được thực hiện trên nền tảng liên minh giai cấp làm nòng cốt: “Cần có quan điểm đúng đắn và thống nhất, kèm theo những chính sách, biện pháp có hiệu quả xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội của xã hội mới ngày càng vững chắc”(3). Để làm tốt chủ trương đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta có kế hoạch tăng cường công tác về dân tộc, bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc. Đẩy mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào ở vùng cao, biên giới, đưa đồng bào miền xuôi lên miền núi để thực hiện phân bố lại lao động, hình thành cơ cấu xã hội mới của các vùng dân tộc.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tác động mạnh mẽ đến tình hình đất nước ta, khiến một bộ phận người dân hoang mang, dao động, tư tưởng xã hội có phần bị phân rã; các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng nước ta, gây mất ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Trong bối cảnh đó, tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nêu khái niệm mới về khối liên minh công - nông - trí thức và khẳng định lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội cũng khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”(4).
Cụ thể hóa quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tại Đại hội VII, Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 17-11-1993, của Bộ Chính trị khóa VII, “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”, khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đại đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung là: tán thành công cuộc đổi mới, giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hướng về tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tất cả vì độc lập của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Quan điểm về đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp xã hội, gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mọi người với nghĩa vụ công dân, lấy lợi ích dân tộc làm trọng;… phát huy truyền thống nhân nghĩa của cha ông.
Đại hội VIII chủ trương: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau”(5). Với quan niệm này, có thể thấy, một trong những điểm mới về đại đoàn kết dân tộc là Đảng ta xác định, người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội IX, điểm mới về đại đoàn kết dân tộc là Đảng ta xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”(6). Khối đại đoàn kết dân tộc có nền tảng là liên minh giữa giai cấp công dân, nông dân và đội ngũ trí thức. Cơ sở sâu xa của đại đoàn kết dân tộc xuất phát từ lợi ích chung của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị Trung ương 7 khóa IX ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trong đó, đánh giá tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu các ưu điểm và đưa ra nhận định: Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Nghị quyết chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xác định mục tiêu: Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng sử dụng cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân”, “Đại đoàn kết dân tộc” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết... Đây là một bước phát triển mới về tư duy đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng.
Đại hội X đã nhấn mạnh nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề của Đại hội; coi đó là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đại hội nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc”(7). Điểm mới về đại đoàn kết toàn dân tộc ở Đại hội này là gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.
Tiếp tục đường lối được xác định trong các đại hội trước, Đại hội XI khẳng định: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn tọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8). Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. Sự kết hợp hài hòa các lợi ích là động lực cơ bản, là nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp và cả xã hội.
Tại Đại hội XII, tư duy mới của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; bởi vậy, nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân mà chúng ta đang tập trung xây dựng hiện nay là nền quốc phòng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mang tính toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng vững chắc. Tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết phải chú ý tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần; tiềm lực quân sự, tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ, tiềm lực quốc phòng, an ninh; gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân..., đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới”(9).
Tại Đại hội XIII, trước tình hình mới, Đảng ta khẳng định, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc không chỉ gắn với thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà còn phải kết hợp với sức mạnh của thời đại, của hòa bình, hợp tác và phát triển, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế với xu thế của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với phát huy ý chí toàn dân tộc cũng nằm trong mục tiêu, định hướng khát vọng phát triển đất nước, với mục tiêu cụ thể là đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã cụ thể hóa hơn nữa chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của Đại hội XIII và tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, từ đó ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Nghị quyết số 43-NQ/TW xác định, nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.
Như vậy, từ chỗ chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân, rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những xơ cứng đến ngày càng cởi mở hơn. Sự phát triển nhận thức về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Một là, qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn khẳng định, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta. Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khẳng định như một thành tố quan trọng, nguồn sức mạnh to lớn, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Bốn là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ có thể được giải quyết thực sự trên cơ sở nguyên tắc kết hợp hài hòa lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, cá nhân, nhóm xã hội…
Năm là, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, Đảng ta đặt vấn đề phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận trong xã hội hiện nay là sự nhất trí trên những điểm tương đồng. Về chính trị, điểm tương đồng là mục tiêu chung: giữ vững độc lập thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Về kinh tế, là sự phát triển hài hòa các lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội) vì sự phát triển chung của đất nước. Về tinh thần, là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về văn hóa, là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn hóa, đạo đức mang tính nhân bản; giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc...
Bộ đội Biên phòng Mường Khương hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế_Nguồn: muongkhuong.laocai.gov.vn
Tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh hiện nay
Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, cần thực hiện hiệu quả một số nhiệm vụ sau:
Một là, thường xuyên quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Bên cạnh lợi ích chung nhất của quốc gia - dân tộc, thì có lợi ích chung của từng giai cấp, tầng lớp, từng cộng đồng, từng giới, từng dân tộc và ở từng địa bàn cụ thể có những lợi ích riêng nhất định. Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, doanh nhân, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tín đồ các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đề cao sự ổn định, thống nhất, đồng thuận của mỗi giai tầng, giới, dân tộc… qua việc thực hiện lợi ích của chính họ, trên cơ sở bảo đảm hài hòa giữa lợi ích chung và riêng sẽ là cơ sở để đoàn kết thực hiện lợi ích chung nhất - lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hai là, cần chủ động nắm bắt tình hình và đề ra những chủ trương, biện pháp sát thực nhằm xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng những vấn đề nổi lên về dân tộc, tôn giáo, những bất cập trong chính sách phát triển kinh tế, xã hội, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc ở các cấp. Có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần có cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ kiều bào ổn định cuộc sống ở nước định cư, phát triển kinh tế; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước.
Ba là, tạo mọi điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ. Trước hết, đó là tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hiện hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác nhau; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục phát huy vai trò là nòng cốt trong tổ chức vận động, tập hợp, quy tụ các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội; có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, triển khai sâu rộng và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động; sâu sát với cơ sở; đa dạng hóa các hình thức vận động nhân dân, lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân làm trọng tâm, góp phần giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Bốn là, đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Chỉ khi làm tốt công tác xây dựng Đảng, Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” thì nhân dân mới thật sự tin tưởng, đoàn kết chung quanh Đảng, ủng hộ, phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để phát huy vai trò là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc, thì bản thân Đảng phải là tấm gương về đoàn kết, thống nhất. “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế”(10)./.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn
------------------
(1) Nguyễn Phú Trọng: Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 15
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 38
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 96
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 124
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 122
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 23
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 41
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 51
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 159
(10) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, NXb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 139
Tin liên quan